Hãy cùng khám phá những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của
người Việt Nam dưới đây để có những ứng xử phù hợp trong các tình huống giao tiếp
nhé.
Văn hóa giao tiếp của người Việt mang những đặc trưng riêng biệt |
Văn hoá giao tiếp là gì?
Tìm ra một định nghĩa minh bạch cho một khái niệm thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội& nhân văn quả là rất khó. Ở đây chỉ có thể đưa ra cái gọi
là định nghĩa ấy thay bằng quan niệm của mỗi người. Văn hóa giao tiếp là một bộ
phận trong tổng thể văn hóa nhằm chỉ quan hệ giao tiếp có văn hóa của mỗi người
trong xã hội (giao tiếp một cách lịch sự, thái độ thân thiện, cởi mở, chân
thành, thể hiện sự tôn trọng nhau), là tổ hợp của các thành tố: lời nói, cử chỉ,
hành vi, thái độ, cách ứng xử…
Đặc trưng giao tiếp cơ bản của người Việt Nam
1. Xét về thái độ đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè.
Như đã nói, người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn
nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong
cộng đồng, chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt
coi trọng việc giao tiếp, và do vậy rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp
này thể hiện chủ yếu ở hai đặc điểm:
- Từ góc độ của chủ thể giao tiếp thì người Việt Nam có tính
thích thăm viếng. Đã thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao nhiêu lần
chăng nữa, lúc rảnh rỗi họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng không còn là nhu cầu
công việc (như ở phương Tây) mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng
thắt chặt thêm quan hệ.
- Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu
khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến
đâu cũng cố gắng tiếp đón chu đáo và tiếp đãi thịnh tình, dành cho khách các tiện
nghi tốt nhất, đồ ăn ngon nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm,
không bằng đói bữa. Tính hiếu khách này càng tăng lên khi ta về những miền quê
hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi.
Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có đặc
tính hầu như ngược lại là rất rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài
rất hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau (thích
giao tiếp và rụt rè) này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam
là tính cộng đồng và tính tự trị. Khi đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen
thuộc, nơi tính cộng đồng ngự trị thì người Việt Nam sẽ tỏ ra xởi lởi, thích
giao tiếp. Còn khi ở ngoài cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị
phát huy tác dụng thì người Việt Nam sẽ tỏ ra rụt rè. Hai tính cách tưởng như
trái ngược nhau ấy ko hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi trường
khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cho cách ứng
xử linh hoạt của người Việt Nam. Tham khảo chương trình đào tạo kỹ năng giao tiếp
ứng xử:
2. Đặc điểm trọng tình nghĩa ghi dấu trong văn hoá giao tiếp của người Việt
Xét về quan hệ giao tiếp, văn hóa nông nghiệp với đặc điểm
trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử:Yêu
nhau yêu cả đường đi/ ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu bổ
ba/ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu
cũng tròn/ghét nhau quả bồ hòn cũng méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề/một trăm chỗ
lệch cũng kê cho bằng…
Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương
làm trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống
có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn: Một bồ cái lý không bằng một tý cái
tình. Người Việt Nam luôn coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời. Ai nhớ mình
một chút đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút cũng phải tôn làm thầy – khái niệm
“thầy” được mở ra rất rộng: thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng,
thầy địa lý, thầy phù thủy…
3. Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thể quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá…
Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng
gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/ chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy
gái…) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này
khiến cho người nước ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính
này – dù gọi bằng tên gì đi nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm của tính cộng
đồng làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải
quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác,
do lối sống trọng tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng,
nên nếu không có đủ thông tin thì không thể lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp
được. Biết tính cách, biết người để lựa chọn từ xưng hô cho phù hợp: Chọn mặt gửi
vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy người gửi của. Khi không được lựa chọn thì người Việt
Nam dùng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
4. Tính cộng đồng trong văn hoá giao tiếp của người Việt
Tính cộng đồng còn khiến người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể
giao tiếp, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch,
rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Danh dự gắn với năng lực
giao tiếp: Lời hay nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền đến
tai nhiều người, tạo nên tai tiếng
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh
sĩ diện: Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi; Đem
chuông đi đấm nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh; Một quan tiền
công không bằng một đồng tiền thưởng. Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiện trầm trọng
qua tục lệ ngôi thứ nơi đình ttrung và tục chia phần. Do danh dự (sỹ diện), các
cụ già vẫn có thể to tiếng nhau vì miếng ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng
xó bếp. Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tạo tin đồn, tạo nên dư luận như
một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng
xã.
Tính cộng đồng của người dân Việt Nam trong các dịp đặc biệt |
5. Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận
Tính tế nhị khiến cho người Việt Nam có thói quen giao tiếp
“vòng vo tam quốc”, không bao giờ mở đầu tực tiếp, đi thẳng vào đề như người
phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải xấn xá cầu điền,
hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống miếng
trầu là đầu câu chuyện. Với thời gian, chức năng “mở đầu câu chuyện” này của
“miếng trầu” được thay thế bởi chén trà, điều thuốc lá…
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng
tình và lối tư duy trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc
kỹ càng khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ; Chó ba quanh mới nằm, người ba
năm mới nói; Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe; Người khôn ăn
nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo… Chính sự đắn đo cân nhắc này
khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán, nhưng đồng thời
giữ được sự hòa thuận, không làm mất lòng ai.
Người Việt Nam rất hay cười, nụ cười là một bộ phận quan trọng
trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam
vào cả lúc ít chờ đợi nhất. Tâm lý ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ
trương nhường nhịn: Một sự nhịn là chín sự lành; Chồng giận thilf vợ bớt lời,
cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê… Tham khảo thêm bài viết: Làm thế nào để giao tiếp tốt hơn?
6. Người Việt có hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú
Trước hết, đó là sự phong phú của hệ thống xưng hô: trong
khi các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì
tiếng Việt còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng
hô, và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ
thống xưng hô này có các đặc điểm:
- Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi
mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.
- Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao – trong hệ thống
này không có những từ xưng hô chung mà phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội,
thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai
người, cách xưng hô có kkhi thể hiện được hai quan hệ khác nhau: chú-con,
ông-con, bác-em, anh-tôi… Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng
thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)
- Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kỹ kưỡng: người Việt Nam xưng
và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối
tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai cùng
xưng là em và cùng gọi nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục
kiêng tên riêng: xưa kia chỉ gọi đến tên riêng khi chửi nhau; đặt tên con cần
nhất là không được trùng tên của những người bề trên trong gia đình, gia tộc
cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người Việt Nam trước đây có tục nhập gia vấn
húy (vào nhà ai phải hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có động đến từ đó thì phải
nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền
thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi
chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một
cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo
quá(cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được đon tiếp), Quý
hóa quá (cảm ơn khi khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen),Cháu
được như hôm nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không
gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc
thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ
các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi
trưa, buổi chiều, buổi tối…
Giáo dục văn hoá giao tiếp trong học đường
Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường không nên chỉ bó
hẹp trong phạm vi nhà trường (tất nhiên nhà trường chịu trách nhiệm chính) mà
còn phải mở rộng phạm vi từ gia đình đến xã hội. Ngay từ nhỏ, gia đình đã có
vai trò rất lớn trong việc hình thành văn hóa giao tiếp cho con cháu. Ông, bà,
cha mẹ là những thầy cô giáo đầu tiên hướng dẫn cách giao tiếp có văn hóa cho
con, cháu (đi chào, về hỏi, gọi dạ, bảo vâng một cách có lễ phép).
Bài học vào đời ấy sẽ được tiếp tục củng cố và phát triển
thêm với những nội dung phong phú, mức độ cao hơn ở các bậc học tiếp theo. Phải
thấy rằng giáo dục văn hóa giao tiếp là không hề giới hạn bởi cấp học nào, bởi
thời gian, không gian nào mà cần phải được tiến hành ở tất cả các bậc học, ở mọi
lúc, mọi nơi, phải tiến hành một cách đồng bộ, nhất quán, tiến hành có nội
dung, có kế hoạch, có phương pháp và thật kiên trì thì mới có hiệu quả.
Nếu thiếu nhất quán sẽ xảy ra tình trạng “trống đánh xuôi,
kèn thổi ngược” thì sẽ phản tác dụng. Không thiếu trường hợp ở nhà, ở trường thì
“con ngoan, trò giỏi”, ra ngoài xã hội lại vi phạm đạo đức, pháp luật. Phải
chăng đó một phần là do tình trạng giáo dục không đồng bộ, nhất quán, thiếu sự
giám sát chặt chẽ. Vì vậy sự liên kết, phối hợp trong giáo dục là rất quan trọng.
Theo Nguồn Cuộc Sống Việt _ Theo Sách Cơ sở Văn hóa Việt Nam
(Trần Ngọc Thêm)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét